Theo yêu cầu của Luật
BVMT 2005, tất cả các loại hình chất thải từ mọi loại nguồn thải đều phải được
xử lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên phần lớn chất thải ở nước ta hiện
nay chưa tuân thủ được yêu cầu này và nhu cầu phát triển các DVMT là rất lớn
bao gồm xử lý nước thải, rác thải, khí thải, tiếng ồn từ các nguồn thải sinh hoạt
và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhu cầu xử lý chất thải rắn và chất thải nguy
hại.
Theo Báo cáo diễn biến môi trường 2004, mỗi năm tại Việt Nam có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Khoảng hơn 80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%). Khoảng 160.000 tấn/năm (chiếm 1%) trong tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở Việt Nam được coi là chất thải nguy hại.
Năm 2008, lượng chất thải rắn khoảng 28 triệu tấn, năng lực quản lý chất thải rắn còn rất nhiều hạn chế với tỷ lệ thu gom đạt 65-70% trên cả nước, các đô thị đạt 80-82%, phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, tỷ lệ chất thải được xử lý hợp vệ sinh đạt 26%, tỷ lệ tái sử dụng tái chế 20%, số doanh nghiệp có thiết bị xử lý 10-20%. Trong khi năng lực quản lý còn nhiều hạn chế thì lượng chất thải rắn tiếp tục được dự báo sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới.
Dự báo đến 2020, lượng chất thải rắn có thể đạt 65-70 triệu tấn. Do vậy trong hiện tại và tương lai, đây cũng là một loại hình DVMT có nhiều cơ hội phát triển.
Tham khảo: Dịch vụ vệ sinh nhà ở đà nẵng
Theo Báo cáo diễn biến môi trường 2004, mỗi năm tại Việt Nam có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Khoảng hơn 80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%). Khoảng 160.000 tấn/năm (chiếm 1%) trong tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở Việt Nam được coi là chất thải nguy hại.
Năm 2008, lượng chất thải rắn khoảng 28 triệu tấn, năng lực quản lý chất thải rắn còn rất nhiều hạn chế với tỷ lệ thu gom đạt 65-70% trên cả nước, các đô thị đạt 80-82%, phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, tỷ lệ chất thải được xử lý hợp vệ sinh đạt 26%, tỷ lệ tái sử dụng tái chế 20%, số doanh nghiệp có thiết bị xử lý 10-20%. Trong khi năng lực quản lý còn nhiều hạn chế thì lượng chất thải rắn tiếp tục được dự báo sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới.
Dự báo đến 2020, lượng chất thải rắn có thể đạt 65-70 triệu tấn. Do vậy trong hiện tại và tương lai, đây cũng là một loại hình DVMT có nhiều cơ hội phát triển.
Tham khảo: Dịch vụ vệ sinh nhà ở đà nẵng
Nhu cầu xử lý nước thải
Theo tính toán của Báo
cáo hiện trạng môi trường 2005, hàng ngày có khoảng 3.110.000 m3 nước thải sinh
hoạt đô thị, nước thải bệnh viện và nước thải sản xuất từ các khu công nghiệp
thải trực tiếp vào nguồn nước mặt, trong đó chiếm phần lớn là nguồn nước thải
sinh hoạt 64%, nước thải sản xuất chiếm 32% và nước thải bệnh viện vào khoảng
4% .
Nhìn chung hiện nay, vấn đề xử lý nước thải, công tác quản lý xây dựng các công trình xử lý nước thải còn khá mới, nhu cầu về hàng hóa và DVMT trong lĩnh vực này còn rất lớn. Tỷ lệ lượng nước thải được xử lý mới chỉ đạt 10%. Mới chỉ có khoảng 46% số khu công nghiệp, 26% khu đô thị (loại 4 trở lên) đã và đang lắp đặt hệ thống xử lý nước thải.
Nhu cầu sẽ tập trung vào các hệ thống xử lý nước thải, các thiết bị xử lý, và các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn, thiết kế, đào tạo tập huấn, quan trắc môi trường cũng như vận hành quản lý…
Nhìn chung hiện nay, vấn đề xử lý nước thải, công tác quản lý xây dựng các công trình xử lý nước thải còn khá mới, nhu cầu về hàng hóa và DVMT trong lĩnh vực này còn rất lớn. Tỷ lệ lượng nước thải được xử lý mới chỉ đạt 10%. Mới chỉ có khoảng 46% số khu công nghiệp, 26% khu đô thị (loại 4 trở lên) đã và đang lắp đặt hệ thống xử lý nước thải.
Nhu cầu sẽ tập trung vào các hệ thống xử lý nước thải, các thiết bị xử lý, và các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn, thiết kế, đào tạo tập huấn, quan trắc môi trường cũng như vận hành quản lý…
![]() |
| Nước thải sinh hoạt |
Nhu cầu xử lý khí thải và làm giảm tiếng ồn
Nhu cầu xử lý khí thải ở
nước ta rất lớn. Theo báo cáo môi trường toàn cầu, năm 2015, thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội là 2 trong số 10 thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới.
![]() |
| Ô nhiễm khí thải từ các khu công nghiệp |
Những
khu vực ô nhiễm không khí nhiều nhất là các đô thị lớn, các khu công nghiệp và
các làng nghề truyền thống.
Trong tương lai, khi Chính phủ có những quy định chi tiết hơn và có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn về khí thải sản xuất công nghiệp và khí thải từ các phương tiện giao thông thì sẽ có nhiều cơ hội cho sự phát triển của các dịch vụ liên quan như cung cấp các thiết bị xử lý ô nhiễm khí thải công nghiệp, cung cấp bộ lọc khí thải cho phương tiện giao thông, kiểm soát nồng độ khí thải…
Những dịch vụ môi trường này ra đời sẽ góp phần tích vực vào việc giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường trên Trái đất chúng ta.
Trong tương lai, khi Chính phủ có những quy định chi tiết hơn và có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn về khí thải sản xuất công nghiệp và khí thải từ các phương tiện giao thông thì sẽ có nhiều cơ hội cho sự phát triển của các dịch vụ liên quan như cung cấp các thiết bị xử lý ô nhiễm khí thải công nghiệp, cung cấp bộ lọc khí thải cho phương tiện giao thông, kiểm soát nồng độ khí thải…
Những dịch vụ môi trường này ra đời sẽ góp phần tích vực vào việc giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường trên Trái đất chúng ta.

